Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013

Ương, cập nhật việt, vãn, vãng

An Chi:1.- Chữ “ương” trong “trung ương” là một hình vị Hán Việt mà Hán tự là [央]. Đây là một chữ hội ý, gồm có chữ “đại” [大á], được phân tách là hình của một người, trong chữ “quynh” [冂], được phân tích là một vật thể, có thể là một cái khung. Với cái ý được hội này (một người trong một cái khung) thì “ương” có tức là “trong”, là “giữa”.

Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức đã giảng về chữ “ương” như sau:

“Ở giữa: Dạ-ương (giữa đêm - AC), trung-ương // (Rộng) a/Giốt, gần chín: Ổi ương - b/ Lình-bình, dở ròng, dở lớn: Con nước ương. - C/ nhỡ nhàng, gàn bướng, nửa khôn nửa dại: Lương-ương, tính ương”.

Còn thi sĩ Thành Nam thì có câu:

Vị Xuyên có Tú Xương,

Dở dở lại ương ương.

Chữ “ương” này còn có mấy chữ đồng âm, đáng chú ý, nhất là ba chữ sau: 1.- Chữ viết với bộ “đãi” [歹] thành [殃], có nghĩa là “xấu”, “có hại”, “tai họa” (như: tai ách). 2.- Chữ với bộ “hòa” [禾] thành [秧], có tức thị “mạ (lúa)”, “cây cối mới mọc”, “cá con mới nở”, v.V... 3.- Chữ với bộ “điểu” [鳥] thành [鴦], có tức thị con mái của chim uyên.

2.- Chúng tôi sẽ không đi vào nội dung của chữ “Việt” trong “Bách Việt” - chuyện này thì phức tạp - mà chỉ bàn đến hiện tượng ứng ngữ âm do bạn nêu ra.

Ở đây, “vượt” là một điệp thức (cùng từ nguyên) của “việt” mà chữ Hán là [越]. Về mối quan hệ giữa hai nguyên âm đôi IÊ và ƯƠ (đi với phụ âm cuối là N, M, T, P), ta có hàng loạt chứng dẫn:

Yêm [淹], ngâm lâu trong nước ↔ ươm (tơ);

Yển [偃] (ngã ra, té ngửa) ↔ ưởn (ngực);

Yên [菸], không còn tốt tươi, mới mẻ ↔ (cá) ươn;

Yếp [腌] ↔ ướp;

Kiếm [劍] ↔ gươm;

Kiếp [劫] ↔ cướp;

Liễm [斂], thu góp, quét dọn ↔ (hái) lượm;

Liệt [列], thứ tự, hàng lối ↔ (lần) lượt;

Niếp< niệp [躡], đi theo ↔ (nườm) nượp;

Phiếm [汎], trôi nổi ↔ (bay) bướm;

Tiêm [纖] # tươm (tươm tất [纖悉] ↔ tươm tất);

Tiết [泄], đại tiện ra máu ↔ tướt (có chuyển nghĩa: trẻ con tiêu chảy lúc mọc răng);

Thiết [切], (hai vật) cọ, quẹt vào nhau; gần gũi; đứng gàn; v.V... ↔ (Lướt) thướt;

Triêm [沾], ngấm, thấm vào ↔ chườm;

Triếp [鮿], cá khô ↔ chượp;

Viên [援] dắt, kéo ↔ vươn (tới, lên);

Viên [園] ↔ vườn;

Viên [猿] ↔ vượn; và rút cuộc là

- Việt [越] ↔ vượt.

Cứ như trên thì xét theo từ nguyên, “việt” và “vượt” là hai từ có hệ trọng với nhau về mặt ngữ âm và là hai điệp thức.

An Chi:Chính những người soạn quyển từ điển này đã chú giải cho chữ “vãn” và chữ “vãng” trong hai mục từ đang xét bằng hai chữ Hán khác hẳn nhau: với “vãn cảnh” là chữ [晚] còn với “vãng cảnh” thì lại chữ [往].

“Vãn” [晚] là buổi chiều nên “vãn cảnh” [晚景] là cảnh chiều hôm, rồi hiểu theo nghĩa bóng là cảnh già, tuổi già. Còn “vãng” [往] là đến, là tới nhưng tiếng Hán không có từ tổ nhất thiết “vãng cảnh” [往景]. Đây cũng chẳng phải là một từ tổ phi Hán Việt vì tiếng Việt không hề có một từ “vãng” độc lập có nghĩa là tới, là đến. Chẳng hạn ta chẳng thể nói *Tôi vãng Bệnh viện 115 thăm bạn hoặc *Hôm anh vãng nhà tôi thì lại đi vắng. Vậy “vãng cảnh” [往景], với nghĩa “đến để thăm cảnh”, chỉ là một cấu trúc Hán Việt do ta đặt ra theo cách của ta.

Nhưng dù cho từ tổ “vãng cảnh” [往景] có chính cống do Tàu đặt ra hay là đặc sản của riêng ta thì với hai chữ Hán khác hẳn nhau chẳng những về tự dạng mà còn cả về ngữ nghĩa như “vãn” [晚] và “vãng” [往] mà chính thức nhấn rằng, hai mục từ “vãn cảnh” [晚景] và “vãng cảnh” [往景] đồng nghĩa với nhau là đã làm một thao tác tự điển học cực kỳ vô lý. Có người đã chủ trương rằng, “ngôn ngữ có sự chuẩn hóa, nhưng cũng có quy luật khách quan, không phải ai quy phạm thì có thể chống lại được thái độ tiếng nói của người khác”. Thật là một sự định hướng khôn ngoan nhưng nó chỉ có thể xài được với điều kiện “thái độ ngôn ngữ của người khác” không lên đường từ sự ngu dốt.

A.C


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét